Nợ nần chồng chất, cùng những tổn thất kinh doanh gây ra bởi tình trạng phong toả để ứng phó với Covid-19 đang đe dọa gây ra làn sóng vỡ nợ rộng khắp châu Á – Thái Bình Dương.
Nhận định trên vừa được hãng xếp hạng tín nhiệm Moody’s đưa ra gần đây, trong bối cảnh tổng lượng dư nợ doanh nghiệp tại châu Á – Thái Bình Dương những năm qua tăng mạnh, do chi phí vay rẻ nhờ vào lãi suất thấp. Hiện, tổng lượng dư nợ doanh nghiệp tại khu vực này đã tăng gấp đôi kể từ sau khủng hoảng tài chính 2008, lên đến 32.000 tỷ USD.
Dẫn lời của Giám đốc Hãng Tư vấn Quản trị FTI Consulting John Park, tờ Financial Times cho biết: “Tình hình ngoài kia có hơi mất kiểm soát và chỉ vài lĩnh vực là được bảo vệ khỏi dịch bệnh mà thôi. Chúng tôi nhận thấy số lượng doanh nghiệp tìm kiếm lời khuyên để tránh lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán đã tăng lên ngay lập tức”.
Theo các chuyên gia, thị trường bất động sản Trung Quốc là một trong những nỗi lo nhức nhối nhất. Dữ liệu từ Công ty chuyên cung cấp thông tin tài chính Dealogic cho biết, tính đến tháng 2/2020, ngành bất động sản Trung Quốc còn 647 tỷ USD nợ trái phiếu chưa thanh toán (gồm trái phiếu có mệnh giá niêm yết bằng CNY lẫn các đồng tiền mạnh). Ngoài ra, số liệu cũng cho thấy doanh thu và số dự án được khởi công trong 2 tháng đầu năm cũng giảm hơn 20% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo ông James Dilley – đối tác tư vấn giao dịch của PwC tại Hồng Kông, nếu như hoạt động của thị trường bất động sản tiếp tục bị gián đoạn thì sẽ ngày càng nhiều doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và lâm vào cảnh vỡ nợ. Bên cạnh đó, đại dịch cũng khiến nguồn vốn đầu tư tại Thái Lan bị siết chặt, trong bối cảnh hàng loạt doanh nghiệp phải hứng chịu thiệt hại nặng nề do lượng khách du lịch giảm mạnh vì Covid-19.
Ngoài ra, dịch bệnh cũng mang lại nhiều rủi ro đối với các ngân hàng tại Việt Nam, trong khi khi một số doanh nghiệp nâng tín dụng, khi vật lộn với các khoản trả nợ. Theo trưởng bộ phận xếp hạng tín nhiệm ngân hàng khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Fitch Ratings Jonathan Cornish, các ngân hàng Việt Nam không có nhiều sự bảo vệ trong kịch bản nền kinh tế phải hứng chịu tác động mạnh từ Covid-19.
Còn tại Australia, Covid-19 đã đẩy nhiều doanh nghiệp xứ sở chuột túi vào cảnh phải cạnh tranh gay gắt để tăng vốn chủ sở hữu nhằm có tiền trả nợ.
David Walter – đối tác của hãng luật Baker McKenzie cho biết: “Một số doanh nghiệp tốt đang phải dùng đến khoản vay khẩn cấp từ ngân hàng hoặc tìm đến những tổ chức tài chính sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Doanh nghiệp thà trả lãi suất cao còn hơn là để rơi vào tình trạng cạn kiệt tiền mặt hoàn toàn”.
Mặc dù vậy, một số nhà đầu tư vẫn đang cố gắng “đãi cát tìm vàng” trước tình cảnh khó khăn hiện tại, theo hãng tin RT. “Lượng giao dịch của chúng tôi đã tăng gấp bội trong tháng 3/2020 so với cùng kỳ năm ngoái. Cơ hội dành cho các công ty giống như chúng tôi đến từ việc xác định những doanh nghiệp sở hữu thanh khoản tốt và có đủ khả năng vượt qua ‘cơn bão’ hiện tại”, trưởng nhóm đầu tư tín dụng của SC Lowy Michael Lowy cho biết.
Còn theo ông Hamish Douglass – Chủ tịch, nhà đồng sáng lập quỹ quản lý đầu tư Magellan Financial Group, tình trạng phong toả vì Covid-19 sẽ là đòn đánh chí tử đối với nhiều doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao. Vị Chủ tịch cho biết, chính phủ các nước có thể sẽ đi theo tấm gương của New Zealand – nơi đã quyết định giải cứu hãng hàng không quốc gia với gói cho vay lên tới 525 triệu USD. “Chỉ có chính phủ mới có thể cứu các doanh nghiệp này khỏi đà rơi tự do”, Douglass cho biết.
Trước đó, huyền thoại đầu tư Jim Rogers – Chủ tịch của Beeland Interests, người đồng sáng lập quỹ đầu tư Quantum với tỷ phú George Soros cũng cho rằng, hàng loạt ngành công nghiệp như hàng không và du lịch sẽ bị ảnh hưởng bởi Covid-19. Theo đó, các doanh nghiệp với khoản nợ lớn đặc biệt dễ bị tổn thương tại thời điểm này; trong khi những tổ chức, cá nhân tham gia vào thị trường thương mại quốc tế nói riêng sẽ gặp phải các vấn đề nghiêm trọng.
Dường như chúng ta đang trên đường hướng tới ‘cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong thời đại của chúng ta’, nhà đầu tư lừng danh bổ sung. Rogers cũng nói “trong vài tháng nữa, chúng ta sẽ biết về điều này”.
Theo DNSG